Công tác tuyên truyền quán triệt, phổ biến chính sách, pháp luật nhằm nâng cao nhận thức về công tác phụ nữ và bình đẳng giới trong cán bộ, công nhân viên, người lao động được tăng cường, trong đó: đẩy mạnh tuyên truyền, học tập các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các nội dung liên quan đến phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt là tuyên truyền, triển khai lồng ghép Nghị quyết số 11-NQ/TW với tuyên truyền Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Trẻ em; Nghị quyết 6b/NQ-BCH của Ban Chấp hành Tổng LĐLĐ Việt Nam (khóa X) "về công tác vận động nữ CNVCLĐ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" và Chỉ thị số 03/CT-TLĐ ngày 18/8/2010 của Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam về tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua "Giỏi việc nước, đảm việc nhà" trong nữ CNVCLĐ. Đa dạng hóa bằng nhiều hình thức tuyên truyền như: treo Băng rôn, khẩu hiệu, pa nô, áp phích, tờ rơi, tờ gấp, sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt lồng ghép,... Kết quả: trong 10 năm qua, các cấp công đoàn đã tuyên truyền được 12.343 cuộc cho 310.850 lượt CNVCLĐ, trong đó có 195.524 lượt nữ CNVCLĐ tham gia, chiếm tỷ lệ 62,9%; ngoài ra phối hợp tuyên truyền Nghị quyết số trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Lạng Sơn, Báo Lao động, Tạp chí Lao động và Công đoàn. Ngoài ra vận động CNVCLĐ tham gia cuộc thi viết "Tìm hiểu chính sách, pháp luật về bình đẳng giới"; Viết về những tấm gương phụ nữ tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang", cuộc thi "Dọc đường công tác Hội.
Hội thi cắm hoa nghệ thuật nhân dịp kỷ niệm Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 20/10
Phối hợp với các Ban, ngành, đoàn thể trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người lao động nói chung lao động nữ nói riêng như: việc làm, tiền lương, ký hợp đồng lao động, chế độ BHXH, BHYT, bảo hộ lao động, các quy định riêng đối với nữ CNVCLĐ; chế độ nghỉ ngơi đối với lao động nữ có thai trên 7 tháng, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, vệ sinh kinh nguyệt,...Các cấp công đoàn đã phối hợp tổ chức kiểm tra được 274 cuộc, LĐLĐ tỉnh kiểm tra được 9 cuộc (trong đó có 65 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp được kiểm tra trực tiếp). Qua kiểm tra, giám sát, nhìn chung phong trào nữ CNVCLĐ và hoạt động nữ công đã được các đơn vị quan tâm triển khai thực hiện, việc thực hiện các chế độ chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với người lao động nói chung lao động nữ nói riêng đã được người sử dụng lao động quan tâm, thực hiện khá đầy đủ.
Phong trào thi đua "Giỏi việc nước, đảm việc nhà" gắn với phong trào "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc", "Nuôi con khỏe, dạy con ngoan" trong nữ CNVCLĐ,.... Hằng năm các cấp công đã vận động trên 95% chị em đăng ký thực hiện phong trào thi đua "Giỏi việc nước, đảm việc nhà". Trong 10 năm đã có 165.484 lượt chị được ghi nhận đạt danh hiệu thi đua "Giỏi việc nước, đảm việc nhà". Tổng kết 5 năm phong trào giai đoạn 2005 - 2009, LĐLĐ tỉnh cấp 1.806 giấy chứng nhận đạt danh hiệu "Giỏi việc nước, đảm việc nhà" 5 năm liên tục, có 02 tập thể, 03 cá nhân được Tổng LĐLĐ Việt Nam tặng Bằng khen; 01 tập thể, 05 cá nhân được UBND tỉnh tặng bằng khen, 10 tập thể và 19 cá nhân được LĐLĐ tỉnh tặng Bằng khen. Tổng kết 5 năm giai đoạn 2010 - 2015, có 12.636 chị đạt danh hiệu 5 năm liên tục, LĐLĐ tỉnh tặng Bằng khen cho 18 tập thể và 32 cá nhân; trên 95% gia đình được công nhận danh hiệu "Gia đình văn hóa" ở khu dân cư, nhiều gia đình CNVCLĐ được khen thưởng "Gia đình văn hoá tiêu biểu". Tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 629/QĐ-TTg, ngày 29/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ và biểu dương gia đình nữ CNVCLĐ tiêu biểu xuất sắc giai đoạn 2010 - 2015 do LĐLĐ tỉnh tổ chức, đã có 17 nữ CNVCLĐ được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen và 44 nữ CNVCLĐ được LĐLĐ tỉnh tặng Bằng khen.
Đ/c Trần Thị Kim Anh, Phó chủ tịch Thường trực LĐLĐ tỉnh trao Bằng khen cho các đồng chí nữ CNVCLĐ có thành tích tiêu biểu xuất sắc trong xây dựng gia đình "No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc" giai đoạn 2010 - 2015
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đoàn viên, CNVCLĐ được chú trọng: Các cấp công đoàn tham mưu cho cấp ủy cùng cấp trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, đào tạo, bồi dưỡng để chủ động về nhân sự, giới thiệu ứng cử, đề bạt, bổ nhiệm đảm bảo tiêu chuẩn của từng chức danh, phát huy thế mạnh, ưu điểm của cán bộ nữ. Hiện nay số nữ giữ cương vị lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh là 52/216 chiếm 24,1%; lãnh đạo chủ chốt, trưởng, phó phòng, ban, ngành cấp huyện, thành phố là 196/632 chiếm 31%, lãnh đạo chủ chốt, trưởng, phó các đoàn thể xã, phường, thị trấn là 781/3.770 (chiếm 20,72%); 802/961 (đạt 83,5%) CĐCS và 100% công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có 50% trở lên là lao động nữ đều có lãnh đạo chủ chốt công đoàn là nữ, tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ chốt của LĐLĐ tỉnh là 2/4 người (đạt 50%).
Tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực phẩm chất chính trị, kỹ năng vận động nữ CNVCLĐ cho đội ngũ cán bộ nữ công các cấp; 100% cán bộ nữ công mới tham gia Ban Chấp hành công đoàn được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác nữ công, kịp thời kiện toàn, bổ sung Uỷ viên Ban Nữ công khi có biến động, thay đổi do có đồng chí thuyên chuyển công tác hoặc nghỉ chế độ. Ban Nữ công các cấp thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả công tác nữ công bằng các hình thức đa dạng, phong phú, sáng tạo phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đơn vị.
Qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 11- NQ/TW của Bộ Chính trị đã từng bước tạo được những chuyển biến tích cực về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong CNVCLĐ. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện như: Công tác tuyên truyền thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-TW, bình đẳng giới, VSTBCPN ở một số CĐCS doanh nghiệp chưa được quan tâm, chú trọng; việc tổ chức tập huấn công tác nữ công và thực hiện các chế độ, chính sách lao động nữ trong doanh nghiệp còn hạn chế; việc tổ chức khám sức khỏe định kỳ, sức khỏe sinh sản, khám phụ khoa cho người lao động nói chung, lao động nữ nói riêng còn hạn chế. Để tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 11- NQ/TW của Bộ Chính trị đạt kết quả, trong thời gian tiếp theo, cần tập trung thực hiện tốt các nội dung sau:
Một là: Tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp công đoàn và đoàn viên, CNVCLĐ về mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác phụ nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp,Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".
Hai là: Đa dạng hóa các hình thức truyền thông nâng cao nhận thức về bình đẳng giới phù hợp với đặc thù từng nhóm đối tượng, điều kiện làm việc, sinh hoạt; lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào nội dung hoạt động của công đoàn các cấp. Từng bước mở rộng đối tượng được truyền thông, trong đó hướng đến đối tượng là nam giới và lãnh đạo; tăng cường công tác phối hợp kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với nữ CNVCLĐ.
Ba là: Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng nghiệp vụ công tác nữ công, công tác giới, bình đẳng giới, VSTBCPN nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Nữ công công đoàn các cấp trong việc tham mưu triển khai công tác vận động nữ CNVCLĐ, công tác bình đẳng giới, VSTBCPN. Vận động nữ CNVCLĐ xây dựng chuẩn mực người phụ nữ Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH đất nước và xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc...
Bốn là: Đề xuất kịp thời các biện pháp, chính sách liên quan công tác cán bộ nữ; Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp thuộc diện quy hoạch vào các chức danh cán bộ chủ chốt công đoàn, tăng tỷ lệ cán bộ nữ trong kỳ Đại hội công đoàn các cấp;tạo nguồn tham gia các cấp ủy Đảng, cơ quan dân cử và tổ chức chính trị - xã hội./.
Bài & ảnh: Nông Thúy Hương, Ban Nữ Công